Đề cử Giải_Booker_Quốc_tế

2005

Giải Man Booker Quốc tế đầu tiên được quyết định bởi John Carey, Alberto ManguelAzar Nafisi.[11] Các ứng viên được thông báo vào ngày 2 tháng 5 năm 2005 ở Đại học Georgetown tại Washington, D.C.[3] Tiểu thuyết gia người Albania Ismail Kadare đoạt Giải Man Booker Quốc tế đầu tiên năm 2005.[11] Trưởng ban giám khảo, Giáo sư John Carey nói Kadare là "một nhà văn toàn diện trong truyền thống kể chuyện bắt đầu từ Homer."[11] Kadare nói anh "hết sức vinh dự" được nhận giải thưởng,[11] và đã chọn một dịch giả để nhận số tiền thưởng 15.000 bảng Anh.[11] Ngày 27 tháng 6, Kadare nhận giải thưởng của mình ở Edinburgh.[11]

Người đoạt giảiNgười được đề cử

2007

Giải thưởng năm 2007 được chấm bởi Elaine Showalter, Nadine GordimerColm Tóibin.[6] Các ứng cử viên cho Giải Man Booker Quốc tế thứ hai được thông báo vào ngày 12 tháng 4 năm 2007 tại Đại học Massey, Toronto.[6] Tác giả người Nigeria Chinua Achebe được công bố là người đoạt giải thưởng Quốc tế năm 2007.[12] Giám khảo Nadine Gordimer nói Achebe là "cha đẻ của văn học châu Phi hiện đại" và rằng anh là một phần "không thể thiếu" cho văn học thế giới.[12] Ngày 28 tháng 6, Achebe nhận giải thưởng của mình ở Oxford.[12]

Người đoạt giảiNgười được đề cử

2009

Giải thưởng năm 2009 được chấm bởi Jane Smiley, Amit ChaudhuriAndrey Kurkov.[13] Các ứng cử viên cho Giải Man Booker Quốc tế thứ ba được thông báo ngày 18 tháng 3 năm 2009 tại Thư viện Công cộng New York.[14] Nhà văn truyện ngắn người Canada Munro đoạt giải thưởng năm 2009 cho những tác phẩm của cô.[13] Giám khảo Jane Smiley nói việc chọn một người duy nhất là "một thử thách", nhưng Munro đã chiến thắng ban giám khảo.[13] Về công trình của Munro, Smiley nói "Văn của cô ấy về cơ bản là hoàn hảo. Bất kỳ nhà văn nào cũng phải kinh ngạc trước những tác phẩm tinh tế và chính xác của cô. Sự thấu hiểu về mọi lĩnh vực của cô thật sắc bén".[13] Munro, người nói cô "hoàn toàn bất ngờ và vui mừng" trước kết quả, nhận giải thưởng tại Đại học Trinity Dublin ngày 25 tháng 6.[2][13]

Người đoạt giảiNgười được đề cử

2011

Giải thưởng năm 2011 được chấm bởi Rick Gekoski, Carmen Callil (rút lui để phản đối kết quả) và Justin Cartwright.[15] Các ứng viên cho Giải Man Booker Quốc tế lần thứ tư được thông báo ngày 30 tháng 3 năm 2011 tại Sydney, Úc.[16] John le Carré yêu cầu được loại khỏi danh sách, nói rằng anh rất "hãnh diện", nhưng không muốn tranh tài ở giải thưởng văn học.[17] Tuy nhiên, giám khảo Dr Rick Gekoski nói mặc dù anh thất vọng khi le Carré muốn rút lui, tên của anh sẽ vẫn có trên danh sách.[17] Ngày 18 tháng 5 năm 2011, tiểu thuyết gia người Mỹ Roth tại Lễ hội Nhà văn Sydney.[18] Về giải thưởng của mình, Roth nói, "Đây là một vinh dự lớn và tôi rất vui được nhận nó".[18] Anh hy vọng rằng giải thưởng sẽ giúp anh nhận được sự quan tâm của độc giả toàn thế giới, những người không biết đến những tác phẩm của anh.[18] Ngày 28 tháng 6, Roth nhận giải thưởng của mình ở Luân Đôn; tuy nhiên, anh không thể tham dự trực tiếp vì lý do sức khỏe nên đã gửi một đoạn video ngắn.[18][19] Sau khi Roth được công bố là người đoạt giải, Carmen Callil xin rút khỏi ban giám khảo, nói rằng "Tôi không coi anh ta là nhà văn... trong 20 năm nữa liệu còn ai đọc anh ta nữa?" Callil sau đó viết một bài xã luận trong tờ The Guardian giải thích quan điểm của mình và tại sao cô rời khỏi ban giám khảo.[7][20]

Người đoạt giảiNgười được đề cử

2013

Giải thưởng năm 2013 được chấm bởi Christopher Ricks, Elif Batuman, Aminatta Forna, Lý Dực VânTim Parks.[21] Các ứng viên cho giải thưởng Man Booker Quốc tế lần thứ năm được công bố ngày 24 tháng 1 năm 2013.[22] Marilynne Robinson là người duy nhất trong mười ứng cử viên là từng được đề cử trước đây.[22] Ngày 22 tháng 5, nhà văn truyện ngắn Lydia Davis được công bố là người đoạt giải thưởng năm 2013 tại một buổi lễ ở Bảo tàng Victoria và Albert, Luân Đôn.[23] Thông báo chính thức về giải thưởng của Davis trên trang web giải thưởng Man Booker mô tả văn chương của cô có "sự súc tích và chính xác của thơ ca". Trưởng ban giám khảo Christopher Ricks nói rằng, "Có sự cảnh giác trong những câu chuyện của cô ấy, và There is vigilance to her stories, và sự chú ý đầy mộng tưởng. Cảnh giác ở cách cảm nhận sự vật đến từng con chữ và âm tiết; cảnh giác ở từng động cơ đen tối và cảm giác mờ ảo của mỗi người".[24]

Người đoạt giảiNgười được đề cử

2015

Giải thưởng năm 2015 được chấm bởi Marina Warner, Nadeem Aslam, Elleke Boehmer, Edwin Frank và Wen-chin Ouyang.[25] Ngày 24 tháng 3 năm 2015, các ứng viên cho Giải Man Booker Quốc tế lần thứ sáu được công bố.[25] László Krasznahorkai trở thành tác giả Hungary đầu tiên nhận giải thưởng Man Booker, cho những "đóng góp trong văn học hư cấu trên trường quốc tế" của anh. Trưởng ban tác giả Marina Warner so sánh văn chương của anh với KafkaBeckett. Hai dịch giả của Krasznahorkai, George SzirtesOttilie Mulzet, cùng nhận số tiền thưởng 15.000 bảng Anh cho dịch giả.[26]

Người đoạt giảiNgười được đề cử

2016

Giải thưởng năm 2016 được chấm bởi Boyd Tonkin, Tahmima Anam, David Bellos, Daniel Medin và Ruth Padel.[28] Các ứng viên cho giải Man Booker Quốc tế lần thứ bảy được công bố ngày 14 tháng 4 năm 2016.[29] Sáu ứng cử viên được chọn từ longlist gồm 13 người.[28][30] Han trở thành tác giả Hàn Quốc đầu tiên nhận giải thưởng, và theo hình thức mới cho năm 2016, Smith trở thành dịch giả đầu tiên cùng nhận giải. Nhà báo Anh Boyd Tonkin, trưởng ban giám khảo, nói rằng toàn bộ ban giám khảo nhất trí với quyết định ấy. Về quyển sách, anh nói, "bằng một văn phong bay bổng và sắc bén, nó cho thấy tác động của sự chối từ lên nữ chính và những người xung quanh cô. Quyển sách đặc kín, thanh nhã và đáng sợ này sẽ tồn đọng trong tâm trí, và có khi là giấc mơ, của độc giả rất lâu".[31]

Người đoạt giảiShortlistLonglist

2018

Giải thưởng năm 2018 được chấm bởi Lisa Appignanesi, , Michael Hofmann, Hari Kunzru, Tim Martin và Helen Oyeyemi. Danh sách ứng viên longlist cho Giải Man Booker Quốc tế lần thứ chín được công bố ngày 12 tháng 3 năm 2018. Ngày 12 tháng 4 năm 2018, sáu quyển sách lọt vào shortlist được công bố tại Somerset House ở Luân Đôn. Ngày 22 tháng 5 năm 2018, tại Bảo tàng Victoria và Albert ở Luân Đôn, Tokarczuk được công bố là người đoạt giải, trờ thành tác giả Ba Lan đầu tiên nhận giải thưởng này,[32] cùng với dịch giả Croft.[33] Lisa Appignanesi mô tả Tokarczuk là một "nhà văn với sự hóm hỉnh, trí tưởng tượng tài tình và màu sắc văn chương chói lóa."[34]

Người đoạt giảiShortlistLonglist
  • Laurent Binet (Pháp), Sam Taylor (dịch giả), cho The 7th Function of Language (Harvill Secker) (La Septième Fonction du langage)
  • Javier Cercas (Tây Ban Nha), Frank Wynne (dịch giả), cho The Impostor (MacLehose Press) (El impostor)
  • Jenny Erpenbeck (Đức), Susan Bernofsky (dịch giả), cho Go, Went, Gone (Portobello Books) (Gehen, ging, gegangen)
  • Ariana Harwicz (Argentina), Sarah Moses & Carolina Orloff (dịch giả), cho Die, My Love (Charco Press) (Matate, amor)
  • Christoph Ransmayr (Áo), Simon Pare (dịch giả), cho The Flying Mountain (Seagull Books) (Der fliegende Berg)
  • Ngô Minh Ích (Đài Loan), Darryl Sterk (dịch giả), cho The Stolen Bicycle (Text Publishing) (單車失竊記)
  • Gabriela Ybarra (Tây Ban Nha), Natasha Wimmer (dịch giả), cho The Dinner Guest (Harvill Secker) (El comensal)

2019

Giải thưởng năm 2019 được chấm bởi Bettany Hughes, Maureen Freely, Angie Hobbs, Pankaj MishraElnathan John. Ngày 13 tháng 3 năm 2019, longlist cho giải Man Booker Quốc tế lần thứ 10 được công bố.[37] Ngày 9 tháng 4 năm 2019, danh sách shortlist được công bố.[38] Jokha Alharthi được công bố là tác giả Ả Rập đầu tiên nhận giải Man Booker Quốc tế ngày 21 tháng 5 năm 2019.[39]

Tác phẩm đoạt giảiShortlistLonglist
  • Love in the New Millennium (新世纪爱情故事) bởi Tàn Tuyết (Trung Quốc), dịch từ tiếng Trung bởi Annelise Finegan Wasmoen (Yale University Press)
  • At Dusk (해질무렵) bởi Hwang Sok-yong (Hàn Quốc), dịch từ tiếng Hàn bởi Sora Kim-Russell (Scribe)
  • Jokes for the Gunmen (نكات للمسلحين) bởi Mazen Maarouf (Palestine-Iceland), dịch từ tiếng Ả Rập bởi Jonathan Wright (Granta)
  • Four Soldiers (Quatre Soldats) bởi Hubert Mingarelli (Pháp), dịch từ tiếng Pháp bởi Sam Taylor (Portobello)
  • Mouthful of Birds (Pájaros en la boca) bởi Samanta Schweblin (Argentina), dịch từ tiếng Tây Ban Nha bởi Megan McDowell (Oneworld)
  • The Faculty of Dreams (Drömfakulteten) bởi Sara Stridsberg (Thụy Điển), dịch từ tiếng Thụy Điển bởi Deborah Bragan-Turner (MacLehose Press)
  • The Death of Murat Idrissi (De dood van Murat Idrissi) bởi Tommy Wieringa (Hà Lan), dịch từ tiếng Hà Lan bởi Sam Garrett (Scribe)

2020

Giải thưởng năm 2020 được chấm bởi Ted Hodgkinson, Jennifer Croft, Valeria Luiselli, Jeet Thayil và Lucie Campos.[40] Ngày 27 tháng 2 năm 2020, longlist cho giải thưởng được công bố.[41] Danh sách shortlist được công bố ngày 2 tháng 4 năm 2020.[42] Tác phẩm đoạt giải ban đầu dự kiến được công bố ngày 19 tháng 5 năm 2020, tuy nhiên do đại dịch COVID-19 phải hoãn đến ngày 26 tháng 8 năm 2020.[43]

Tác phẩm đoạt giảiShortlistLonglist

2021

Giải thưởng năm 2021 được chấm bởi Lucy Hughes-Hallett, Aida Edemariam, Neel Mukherjee, Olivette OteleGeorge Szirtes.[45] Danh sách longlist được công bố ngày 30 tháng 3 năm 2021, shortlist ngày 22 tháng 4, và tác giả cùng dịch giả đoạt giải được công bố ngày 2 tháng 6 năm 2021.[46]

Tác phẩm đoạt giảiShortlist[47]
  • The Dangers of Smoking in Bed (Los peligros de fumar en la cama) bởi Mariana Enríquez, dịch từ tiếng Tây Ban Nha bởi Megan McDowell (Granta Books)
  • The Employees (De ansatte) bởi Olga Ravn, dịch từ tiếng Đan Mạch bởi Martin Aitken (Lolli Editions)
  • When We Cease to Understand the World (Un verdor terrible) bởi Benjamín Labatut, dịch từ tiếng Tây Ban Nha bởi Adrian Nathan West (Pushkin Press)
  • In Memory of Memory (Памяти памяти) bởi Maria Stepanova, dịch từ tiếng Nga bởi Sasha Dugdale (Fitzcarraldo Editions)
  • The War of the Poor (La Guerre des pauvres) bởi Éric Vuillard, dịch từ tiếng Pháp bởi Mark Polizzotti (Picador)
Longlist
  • I Live in the Slums bởi Tàn Tuyết, dịch từ tiếng Trung bởi Karen Gernant & Chen Zeping (Yale University Press)
  • The Pear Field (მსხლების მინდორი) bởi Nana Ekvtimishvili, dịch từ tiếng Georgia bởi Elizabeth Heighway (Peirene Press)
  • The Perfect Nine: The Epic Gikuyu and Mumbi (Kenda Mũiyũru: Rũgano rwa Gĩkũyũ na Mũmbi) bởi Ngũgĩ wa Thiong'o, dịch từ tiếng Gikuyu bởi tác giả (Harvill Secker)
  • Summer Brother (Zomervacht) bởi Jaap Robben, dịch từ tiếng Hà Lan bởi David Doherty (World Editions)
  • An Inventory of Losses (Verzeichnis einiger Verluste) bởi Judith Schalansky, dịch từ tiếng Đức bởi Jackie Smith (MacLehose Press)
  • Minor Detail (تفصيل ثانوي) bởi Adania Shibli, dịch từ tiếng Ả Rập bởi Elisabeth Jaquette (Fitzcarraldo Editions)
  • Wretchedness (Eländet) bởi Andrzej Tichý, dịch từ tiếng Thụy Điển bởi Nichola Smalley (And Other Stories)

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Giải_Booker_Quốc_tế http://news.smh.com.au/breaking-news-national/le-c... http://www.complete-review.com/saloon/archive/2015... http://www.dw.com/en/polish-novelist-olga-tokarczu... http://www.huffingtonpost.com/2009/03/18/el-doctor... http://www.thebookseller.com/news/man-booker-30662... http://themanbookerprize.com/international http://themanbookerprize.com/resources/media/press... http://www.themanbookerprize.com/news/lydia-davis-... http://www.themanbookerprize.com/news/man-booker-i... http://www.themanbookerprize.com/news/man-booker-i...